Thứ Ba, 28 tháng 3, 2017

Tiền đề cho các phong trào dân chủ Việt (3): Khai thác các mâu thuẫn giữa ĐCSVN với các nhóm người, giai tầng khác


Là đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, dĩ nhiên trong quá trình hoạt động, Đảng Cộng sản không tránh khỏi đụng chạm đến lợi ích riêng của những nhóm người, giai tầng xã hội khác. Những kẻ trục lợi chính trị, những phe cánh thất thế đang nương dựa ngoại bang hòng tìm đường trở lại nước non đã ranh mãnh lợi dụng mâu thuẫn sẵn có này để nổi lên những ngọn lửa căm thù qua đó thừa cơ cháy nhà hôi của. Thực vậy, nghiên cứu các luồng tư tưởng chống Cộng mới dấy lên, dễ nhận ra rằng sức hiệu triệu lòng người của lá cờ “dân chủ” hoá ra lại đến từ mối thù hằn mang tính giai cấp thông qua những vụ án như Quốc Dân Đảng, Cải Cách Ruộng Đất hay Nhân Văn Giai Phẩm.

Kết quả hình ảnh cho Nhân văn giai phẩm

Vụ án phố Ôn Như Hầu là đỉnh cao của mâu thuẫn Quốc – Cộng, nhưng cần phân định rõ: Quốc dân Đảng giai đoạn này khác xa ý định ban đầu của Nguyễn Thái Học. Thập niên 30, tàn đuốc khởi nghĩa vũ trang ở Yên Bái sớm bị dụi tắt vẫn kịp nhóm lên một phong trào đấu tranh theo chủ nghĩa tam dân với một loạt hội đoàn, đảng phái Quốc dân mới xuất hiện cả trong và ngoài nước. Dưới bàn tay sắp đặt của chính phủ Trung Hoa Dân Quốc, tháng 5/1945 tại Trùng Khánh, các đảng này liên minh và hợp nhất, tạo thành Đại Việt Quốc dân Đảng, hay gọi tắt là Việt Quốc.

Sau ngày Việt Nam giành lại độc lập, Việt Quốc ráo riết hoạt động chống chính quyền non trẻ vừa thành lập. Trên mặt trận tư tưởng, họ cho xuât bản báo Việt Nam vào tháng 11/1945, liên tục bêu xấu, bôi nhọ Nhà nước, cáo buộc Hồ Chí Minh độc tài, kêu gọi các lực lượng cùng đứng lên lật đổ [1]. Về quân sự, được sự hỗ trợ từ Trung Hoa, Việt Quốc thành lập 7 chiến khu khắp miền Bắc và miền Trung, đặc biệt chú trọng kiểm soát các tỉnh dọc biên giới Việt Trung. Thêm vào đó, mượn cớ được Đồng Minh ủy nhiệm giải giới quân đội Nhật ở Đông Dương từ phía Bắc vĩ tuyến 16 (Đà Nẵng) đến biên giới Việt Hoa, 20 vạn quân Trung Hoa Dân Quốc đổ xuống đã yểm trợ cho các yếu nhân Việt Quốc và Việt Cách (Vũ Hồng Khánh, Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam) về nước, tạo thế cho Đảng Quốc dân lộng quyền [2].

Trước tình hình quân Pháp lăm le ở miền Nam, những người cộng sản cần hêt sức tránh thế lưỡng đầu thọ địch, nên đã để quân Tưởng giúp Việt Quốc chiếm cứ nhiều tỉnh Bắc Bộ. Từ tháng 9/1945, dựa thế quân Tưởng, Quốc dân Đảng đánh phá chính quyền địa phương từ biên giới Việt Trung về tới Hà Nội, đánh phá các lực lượng Việt Minh ở ngay Hà Nội bằng nhiều cách. Cũng nhờ sự bảo kê này mà Quốc dân Đảng có ghế, có quyền trong chính phủ Quốc Gia Liên Hợp, lại càng ra sức làm già. [2]

Tuy nhiên chẳng bao lâu sau, qua Hòa Ước Sơ Bộ 6-3, Tưởng bắt tay mời Pháp trở lại miền Bắc, để mặc phía Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa rảnh tay xử lý Việt Quốc. Mất chỗ dựa, lại nhanh chóng thất thế về quân sự, Việt Quốc phải tạm điều đình, tuy nhiên, họ vẫn ngầm liên lạc với Pháp nhằm chuẩn bị cho cuộc đảo chính [3]. Phát hiện được âm mưu, chính quyền Dân chủ Cộng hòa ra quyết định tấn công tất cả các văn phòng của Việt Quốc ở Hà Nội và các tỉnh [4]. Tháng 7 năm 1946, sự kiện vụ án phố Ôn Như Hầu xảy ra, các lãnh tụ Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh phải trốn sang Trung Hoa, lực lượng Quốc dân Đảng tan rã. Các giai đoạn sau này, thế lực thế lực Việt Quốc tản mát và phân hoá nhiều nhánh dưới chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, nhưng luôn lăm le chiếm quyền bính bằng các phương cách dựa vào thế lực ngoại bang.

Đến nay, án Quốc – Cộng thường được mồi lên để đào sâu mâu thuẫn Đảng Cộng sản với tầng lớp tư sản, nhưng phe “đấu tranh dân chủ” còn một chiêu bài đắc ý khác: khai thác sâu vào mâu thuẫn giữa Đảng với địa chủ phong kiến qua án Cải Cách Ruộng Đất.
Với ý định tạo tiền đề cho đời sống sản xuất nông dân, từ sau Cách Mạng Tháng Tám, các công tác chuẩn bị cho cải cách ruộng đất đã rậm rịch được thực hiện: giảm địa tô, bãi bỏ mọi khoản tiền thuê ruộng, tịch thu ruộng đất của người Pháp, dân di cư, đất bỏ hoang… để phân chia cho tá điền. Cải cách ruộng đất trở thành nội dung chính của Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất của Đảng Lao động Việt Nam vào tháng 11/1953, và một tháng sau đó, Luật Cải cách Ruộng đất được ban hành. Dưới sức ép của cố vấn Trung Quốc, năm 1954, chương trình cải cách ruộng đất dần được áp dụng qua các bước như huấn luyện cán bộ, giảm tô, phân định thánh phần, phân loại địa chủ, học tập tố khổ, lùng bắt địa chủ, công khai đấu tố, xử án địa chủ. Đến năm 1955, một số nơi xuất hiện hiện tượng đấu tố tràn lan, mất kiểm soát, lạm dụng quyền hành của cán bộ, gây nhiều hậu quả và hiểu nhầm nghiêm trọng. Ngay sau đó, Hội nghị Trung ương 10 của Đảng Lao động Việt Nam tháng 9 năm 1956 đã tự nghiêm khắc phê bình nhận khuyết điểm, tuyên bố các sai lầm và các biện pháp sửa sai.

Theo tổng kê, đến tháng 9 năm 1957, chiến dịch sửa sai đã phục hồi danh dự và trả lại tài sản cho khoảng 70 – 80% số người bị kết án. Tuy nhiên, báo Nhân dân cho biết nhiều người được phục hồi đã trả thù những người đấu tố họ oan ức, hoặc chưa kịp trả thù đã bị thủ tiêu trước để tránh việc trả thù. Phong trào trả thù lan rộng và biến thành bạo động tại nhiều nơi khiến chính quyền phải điều động quân đội để đánh dẹp. Ở Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, có bản báo cáo ghi nhận 20.000 nông dân dùng gậy gộc gây bạo động khiến chính quyền phải dùng Sư đoàn 324 để tái lập trật tự.[5] Một số gửi thỉnh nguyện thư đến phái đoàn quan sát viên Canada trong Ủy ban Đình chiến, xin di cư vào Nam [6].

Nhìn nhận khách quan, cải cách ruộng đất được tiến hành với mục đích tích cực, nhằm giải quyết vấn đề sở hữu ruộng đất của nông dân, ổn định sản xuất, tạo nền tảng phát triển đất nước. Tuy nhiên, quá trình thực hiện có nhiều sai lầm về đách giá, về lạm dụng bạo lực... dẫn đến nhiều hậu quả lâu dài và gây náo loạn trong nước. Tuy nhiên Đảng đã thẳng thắn nhìn nhận mặt tiêu cực, nhanh chóng sửa sai, phản ứng kịp thời. Dẫu vậy, mối thù giai tầng nhóm lên trong hỗn loạn vẫn còn âm ỉ, và những phe phái “đấu tranh dân chủ” không ngại vin vào những mâu thuẫn đó thổi bùng lên ngọn lửa hận thù, kích động quần chúng.

Một chiêu bài khác đặc biệt hữu dụng để chia rẽ giới văn nghệ sĩ và trí thức salon với Đảng Cộng sản là qua vụ án Nhân Văn Giai Phẩm. Tên nhóm đựoc ghép từ hai tờ báo được coi là “cơ quan ngôn luận” của phong trào: báo Nhân Văn và tạp chí Giai Phẩm. Trước đó, từ năm 1955, nhóm Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm đã đấu tranh giành quyền lãnh đạo văn nghệ lại cho văn nghệ sĩ, nhất là trong môi trường văn nghệ quân đội. Đến tháng giêng năm 1956, Giai Phẩm Mùa Xuân ấn hành có đăng thơ của Trần Dần bị quy kết là chống phá bôi đen chế độ. Tháng 8 năm 1956, Phan Khôi có bài "Phê bình lãnh đạo văn nghệ", đăng trong Giai phẩm Mùa thu. Trong số ra mắt ngày 20 tháng 9 năm 1956, bán nguyệt san Nhân Văn đã đăng ngay trên trang nhất bài phỏng vấn luật sư Nguyễn Hữu Đang với tiêu đề "Chúng tôi phỏng vấn về vấn đề mở rộng tự do và dân chủ". Loạt phỏng vấn đưọc đăng tiếp nối với sự xuất hiện của các nhân vật bác sĩ Đặng Văn Ngữ, nhà sử học Đào Duy Anh. Bên cạnh đó, Trần Đức Thảo và Trần Dy cũng lần lượt lên tiếng về vấn đề dân chủ trên các báo này. Đặc biệt, báo Nhân văn số 6 có bài kích động kêu gọi nhân dân xuống đường biểu tình, song đã sớm bị phát hiện và không được phát hành. Ngày 15 tháng 12 năm 1956, Ủy ban hành chính Hà Nội ra thông báo đóng cửa báo Nhân Văn. Số 6 không được in và phát hành [7]. Sau đó, hầu hết các văn nghệ sĩ tham gia phong trào Nhân Văn Giai Phẩm bị điều tra và xử lý [8], phải tham gia học chỉnh huấn vì có tư tưởng bị xem là trái với đường lối của Đảng Lao động Việt Nam. Kể từ đó, phong trào tan rã, người thì bị treo bút một thời gian dài như Lê Đạt, Trần Dần, số khác không tiếp tục con đường sự nghiệp văn chương, thậm chí có người bị giam giữ trong một thời gian dài và tiếp tục bị giám sát trong nhiều năm sau khi mãn tù như trường hợp Nguyễn Hữu Đang.

Dù một số nhân vật trong án này đã được phục hồi danh dự, nhưng mâu thuẫn với tầng lớp trí thức salon, tư sản hay địa chủ phong kiến vẫn tiếp tục bị những người “đấu tranh dân chủ” khai thác. Không ngạc nhiên khi những năm gần đây, các án cũ liên tục được phe này đào sâu khai thác, thêm mắm dặm muối. Giữa những luồng dư luận kích động thù hằn ấy, cần minh định lại một điều: khác biệt căn bản dẫn đến mâu thuẫn giữa Đảng Cộng sản và các giai tầng khác là đường lối và mục đích hoạt động của từng lực lượng. Trong khi Đảng Cộng sản sử dụng quyền lực của công nhân và nông dân để lần lượt chống Nhật, chống Pháp, chống Mỹ, thì các thành phần Quốc Dân Đảng, địa chủ tư sản, trí thức salon…vv… lại lệ thuộc quyền lợi vào hệ thống chính quyền phong kiến, thực dân và đế quốc, chờ cơ hội trục lợi riêng. Ví dụ tiêu biểu cho các hành vi chính trị kiểu này là con đường quyền lực của Trần Trọng Kim. Từ năm 1943, khi vừa khép lại sự nghiệp dạy học, Trần Trọng Kim đã được người Nhật bí mật đưa sang Singapore rồi chính quân đội Nhật đã đưa ông về nước vào năm 1945 [10]. Sau khi “trao trả độc lập” cho Việt Nam, với Trần Trọng Kim trong tay, người Nhật dựng lên chính quyền bù nhìn Bảo Đại nằm dưới quyền kiểm soát chặt chẽ của mình. Ngày 17/4/1945, Trần Trọng Kim được giao thành lập nội các ở Huế, hình thành nên một dạng chính phủ nghị viện đầu tiên ở Việt Nam do chính ông làm Thủ tướng [11]. Chính quyền thân Nhật này tồn tại vẻn vẹn 4 tháng cho đến Cách Mạng Tháng Tám thành công, vua Bảo Đại thoái vị. Khi đó, Trần Trọng Kim lưu lạc sang Trung Quốc hòng mưu với các chí sĩ khác của nhiều đảng phái gây dựng lại quyền lực. Khi Đảng cộng sản đang tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp, ông nhận lời đề nghị của Pháp đứng ra soạn thoả thuận chấm dứt chiến tranh với sự chứng kiến của Bảo Đại. Theo sự thu xếp của người Pháp, ông về Sài Gòn vận động thành lập chính phủ mới, tuy nhiên đến bấy giờ ông mới nhận ra người Pháp chỉ đang lừa dối mình. Khái quát lại con đường chính trị của Trần Trọng Kim, dù chính ông luôn tự khẳng định tấm lòng chân thành với dân tộc của mình, không thể phủ nhận sự thật rằng ông luôn dựa vào quyền lực phong kiến, thực dân và đế quốc để tiêu diệt Đảng Cộng Sản.

Không khó hiểu khi một phong trào chính trị dựa hơi ngoại bang luôn chuốc lấy thất bại. Họ không đem lại bất cứ thay đổi nào ngoại trừ việc tạo nên những đám đông ồn ào, và đến nay, đám đông ấy vẫn không ngừng tuyên truyền bôi nhọ nói xấu Đảng Cộng sản..
Nguồn blog GĐTQT
 [1] David G.Marr. Vietnam: State. War, and Revolution (1945 – 1946), tr.416-417, California: University of California Press, 2013.
[2] Pham Văn Sơn, Việt Sử Toàn Thư: tr. 707, Sàigòn: Thư Lâm Ấn Quán, 1960.
[3] Vụ án phố Ôn Như Hầu, thiếu tướng Lê Hữu Qua, Báo Nhân dân, ngày 19/8/2005.
[4] David G.Marr. Vietnam: State. War, and Revolution (1945 – 1946), tr.424-425, California: University of California Press, 2013.
[5] Dommen, Arthur, The Indochinese Experience of the French and the Americans: Nationalism and Communism in Cambodia, Laos, and Vietnam, Bloomington, IN: Đại học Indiana Press, 2001, trang 341.
[6] Lind, Michael, Vietnam, the Necessary War, New York: Touchstone, 1999, tr 153-156
[7] Lê Mậu Hãn (chủ biên), Trần Bá Đệ, Nguyễn Văn Thư,..., Đại cương Lịch sử Việt Nam tập 3, Nhà xuất bản Giáo dục, 2007. Trang 144, 145
[8] Tố Hữu, Qua cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại "Nhân Văn - Giai Phẩm" trên mặt trận văn nghệ, nhà xuất bản Văn Hoá, 1958
[9] Abuza, Zachary. Renovating Politics in Contemporary Vietnam. Boulder, CO: Lynne Rienner Publishers, 2001. Trang 54-55.
[10] Trần Trọng Kim, hồi ký “Một cơn gió bụi”, NXB Vĩnh Sơn, 1949.

[11] Thomas Hodgkin (1981).Vietnam: the revolutionary path. Nhà xuất bản Macmillan. Trang 362.

Thứ Ba, 21 tháng 3, 2017

Tiền đề cho các phong trào dân chủ Việt (2): bấu víu vào bóng ma của Việt Nam cộng hòa

Lời tuyên bố đầu hàng vô điều kiện của Tổng thống Dương Văn Minh ngày 30/4/1975 đã đặt dấu chấm hết cho chính thể Việt Nam Cộng hòa (VNCH), tuy nhiên, bóng ma của chế độ này vẫn còn ẩn hiện quanh quẩn nhiều nơi, ám ảnh đời sống nhiều người. Sau khi thất bại năm 1975, cánh quan chức tướng lĩnh của chính quyền Sài Gòn cũ chạy được ra nước ngoài như Pháp, Mỹ… đã liên lạc chặt chẽ với nhau nhờ cùng có lòng căm thù và cùng nuôi chí phục thù, phục quốc. Một lực lượng khác là những người dân thường bỏ xứ mà đi trên những con thuyền lênh đênh hay qua những miền biên giới heo hút đến sống nơi đất khách quê người, họ là những đối tượng dễ dàng bị các chính trị gia thất thế nhồi nhét tư tưởng căm thù. Hai lớp người này tạo thành cộng đồng người Việt lưu vong, gắn kết với nhau trên cơ sở lòng căm thù, cùng chung một mộng kéo lại lá cờ sọc ba que.

Hoạt động thường niên nổi bật của cộng đồng người Việt lưu vong là tổ chức ngày tưởng niệm Quân lực VNCH 19/6. Lễ kỉ niệm này thường được tổ chức bởi Liên hội Cựu Quân nhân quân lực VNCH như một phương thức kích động bạo lực và khơi dậy lòng căm thù với hoạt động chủ yếu là đả kích bêu xấu Cộng sản. Trong lễ tưởng niệm được tổ chức ngày 20/6/2015 tại San Jose, một cực chiến binh đại diện cho Liên hội Cựu Quân nhân quân lực VNCH tuyên tội: “Hồ Chí Minh và tập đoàn Cộng sản là tội đồ dân tộc! Chúng tôi hoàn toàn ủng hộ đồng bào đứng lên đòi sự sống, đòi nhân quyền, đòi dân chủ và tự do.” Lễ tưởng niệm thu hút sự quan tâm của nhiều bạn trẻ sinh sau năm 1975, chẳng hạn như Long, một thanh niên ở San Jose, theo lời cậu “Việt Nam mất hết tự do, nhân dân đang bị ức hiếp, lớp trẻ thì bị tẩy não”. Một bạn trẻ khác, Lê Phước Thoại, cũng sống ở San Jose lên tiếng yêu cầu chính phủ Việt Nam trả tự do cho những “nhà dân  chủ”. Cũng tại lễ tưởng niệm này, Nguyễn Ngọc Dũng nêu quan điểm: “Việt Nam mai sau không thể có bóng dáng những gì thuộc về cộng sản. Chúng tôi ước mong những nhà đấu tranh dân chủ tiếp tục con đường của những chiến sĩ quân lực VNCH” [1]. Thông điệp ở đây khá rõ: các nhà đấu tranh dân chủ là những “chiến sĩ kiểu mới” của quân lực VNCH.

Gọi là “chiến sĩ kiểu mới” để phân biệt với những chiến sĩ kiểu cũ, đấu tranh bằng bạo động vũ trang như Hoàng Cơ Minh và Nguyễn Hữu Chánh. Cần nhớ rằng hai người này cũng núp dưới danh nghĩa của Quân lực VNCH và dùng lòng thù hận và giấc mơ phục quốc để xây dựng tổ chức của mình. Năm 1981, Hoàng Cơ Minh lập một căn cứ ở tỉnh Uđông (Thái Lan), đồng thời lập ra “Việt Nam Canh tân Cách mạng đảng”, gọi tắt là đảng Việt Tân. Từ đó, Minh tuyển mộ và huấn luyện đội quân 200 người để phục vụ kế hoạch Đông tiến về Việt Nam, tuy nhiên, sau hai lần thất bại trong việc xâm nhập qua biên giới Việt Lào, Minh tự sát [2]. Cũng lập căn cứ huấn luyện ở Thái Lan, nhưng không chiến đấu từ biên giới như Hoàng Cơ Minh, Nguyễn Hữu Chánh quyết đưa người của mình vào khủng bố bằng thuốc nổ ở các thành phố lớn, tuy nhiên các nhóm hành động này nhanh chóng bị bắt vào giai đoạn 1999-2000 [3]. Các kế hoạch khủng bố của Chánh đều bất thành, và Chánh bị chính phủ Việt Nam bắt vào năm 2006 tại Hàn Quốc [4].

Không ồn ào công khai dương ngọn cờ vàng như cánh tướng lĩnh quân đội, một thế lực khác ẩn mình kỹ hơn, luôn kêu gọi đấu tranh bất bạo động, giữ lập trường “dân chủ ôn hòa”, đó là thế lực của Nguyễn Gia Kiểng, đại diện cho lớp trí thức VNCH cũ. Nguyễn Gia Kiểng sinh ra trong một gia đình theo Quốc dân Đảng, di cư vào Nam năm 1945, gia đình ông bị Ngô Đình Diệm truy lùng vì tình nghi âm mưu chống chính quyền, những hoạt động chính trị của Kiểng chỉ bắt đầu sau khi Diệm bị lật đổ. Năm 1982, Kiểng sang Pháp, nhanh chóng bắt liên lạc với các tri thức VNCH tại đây, lập nên Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, và bắt đầu xuất bản báo Thông luận từ năm 1988 [5]. Với con đường “dân chủ ôn hòa”, ban đầu Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên nhanh chóng chiếm được lòng tin của nhiều người trong nước. Bề ngoài, tổ chức này luôn đóng vai người hòa giải dân tộc và đấu tranh cho dân chủ bằng phương thức bất bạo động, nhưng bên trong, họ không ngừng tiếp cận và điều phối các tổ chức trong nước. Một chiêu bài mị dân, Kiểng cho ra quyển sách “Tổ quốc ăn năn” lật ngược các vấn đề dân tộc và lịch sử, đặc biệt là bôi xấu con đường cứu nước của Đảng Cộng Sản. Đoạn sau đây được trích từ bài “Một bài học lịch sử”, nằm trong phần 2 “Con đường đã qua” của quyển sách Tổ quốc ăn năn:

“Đảng cộng sản đã vận động được lòng yêu nước đó để dựa vào chiêu bài giải phóng dân tộc mà tranh đấu cho chủ nghĩa cộng sản và họ cũng đã giáng một đòn chí tử vào lòng yêu nước vừa mới có được một sức mạnh. Lần đầu tiên ở nước ta xuất hiện một lực lượng không kêu gọi đoàn kết dân tộc mà kêu gọi hận thù giữa dân tộc. Tiếng gọi đấu tranh giai cấp về thực chất là một tiếng gọi nội chiến, một tiếng gọi giải thể quốc gia, thay thế tinh thần quốc gia bằng tinh thần giai cấp. Sau đó chính sách toàn trị của họ đã biến đất nước thành của riêng một đảng - như ngày trước nó là của riêng một dòng vua - và trục xuất đại khối dân tộc khỏi định mệnh đất nước. Đã thế, đảng cầm quyền lại còn áp dụng vô số biện pháp phân loại dân chúng và phân biệt đối xử. Những đỗ vỡ và thất vọng kéo dài quá lâu đã làm sụp đổ lòng yêu nước của người Việt.”

Được coi như quyển sách cốt lõi về tư tưởng của Phong trào dân chủ, tuy nhiên Tổ quốc ăn năn lại là một tài liệu nghiên cứu tồi, một tác phẩm lý luận dở. Sách bàn nhiều về lịch sử, nhưng không đưa ra sử liệu rõ ràng, rút ra nhiều kết luận, nhưng hiếm kết luận nào có hệ thống căn cứ vững chắc. Trong sách, Kiểng bàn từ chuyện Tây sang chuyện Tàu, từ Đông Chu Liệt Quốc đến đời nay, nhưng đa phần ý tưởng là áp đặt chủ quan hay những ý nghĩ vu vơ ghi chép lại của tác giả, không hề có bằng cớ, lập luận logic hay cơ sở khoa học. Chẳng hạn như dựa vào câu “Công hồ dị đoan, tư hại đã dĩ”, tác giả kết luận Khổng Tử “bài bác việc mở mang kiến thức” (Trong bài “Anh không biết gì về cộng sản” ở phần 3 “Vì đâu nên nỗi”). Trường hợp khác, trong bài “Ảo ảnh Lý Trần” ở phần 2 “Con đường đã qua”, tác giả kết luận mà không dẫn ra bất kì sử liệu cụ thể nào: “Trong khoảng thời gian năm trăm năm độc lập, trong đó bốn trăm năm là thời đại Lý Trần, nước ta đã tụt hậu rất nhiều, rồi mất độc lập.” Không chỉ là một cuốn sách mị dân rẻ tiền, đó còn là một tác phẩm ăn cắp trắng trợn, chính Nguyễn Gia Thưởng – một đồng đội sát cánh cùng Kiểng đã lên tiếng tố cáo và đăng công khai thông tin này trên e-Thông Luận, trang phát ngôn chính thức của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên. Theo đó, tác phẩm “Tổ quốc ăn năn” đã mượn toàn bộ ý tưởng và câu văn từ quyển “Le Mal Français” của Alain Peyrefitte, thậm chí sao chép ngay cả cách bố cục, cách dùng từ [6]. Mặt nạ của Kiểng chỉ rơi xuống khi nội bộ của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên có sự phân tách lớn trong năm 2016, và đã dẫn tới một cuộc ly khai. Trái với sự ôn hòa dựng tạm trong nhiều năm, sau khi ly khai các phe phái trong tổ chức cũ đã không tiếc lời bêu xấu nhau trước công luận [7] [8] [9].

Bên cạnh Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, một tổ chức khác cũng nổi bật trong “làng” chống Cộng là đảng Việt Tân. Ban đầu được Hoàng Cơ Minh thành lập để tiến hành bạo động vũ trang, sau khi thất bại, Việt Tân đổi hướng hoạt động từ khủng bố sang rêu rao các lý tưởng về dân chủ nhân quyền. Đây là một chiêu bài để Việt Tân thâu tóm người dân tại San Jose, làm đầu nậu số phiếu cho các chính khách Mỹ. Không ít dân biểu của Mỹ có mối quan hệ mật thiết với tổ chức này, tiêu biểu có thể kể đến Lorretta Sanchez, dân biểu Hạ viện Hoa Kỳ từ năm 1997 đến 2017, người luôn tích cực đứng ra bảo vệ các phần tử chống phá trong và ngoài nước, đồng thời liên tục lên tiếng tại Hạ Viện Hoa Kỳ, đệ nạp các dự luật gây sức ép đến Việt Nam về vấn đề nhân quyền [10] [11]. Thông qua Lorretta Sanchez, Việt Tân đã môi giới thế lực đấu tranh chống chính quyền trong nước với Đảng Dân chủ Mỹ. Để tạo cơ sở niềm tin, Việt Tân luôn truyền thông rầm rộ về các cuộc gặp gỡ hay mối quan hệ của tổ chức này với các chính khách Mỹ [12]. Với lộ trình này, toàn bộ những lời tuyên truyền về nhân quyền và dân chủ ở Việt Nam đều do một tay Đảng Việt Tân đứng đằng sau đạo diễn cùng với sự hỗ trợ của Mỹ [13]. Chiêu bài kích động lật đổ chính quyền này của Mỹ từng được diễn đi diễn lại ở Ba Lan, Ả Rập, Ukraine, Myanmar…


Chịu ảnh hưởng bởi các tuyến tuyên truyền lệch lạc của các thế lực cờ vàng, giới trí thức văn nghệ sĩ phản biện bắt đầu có xu hướng nuối tiếc cho thời VNCH. Thậm chí, có nơi còn cực đoan hóa, coi mọi giá trị dưới thời VNCH đều là tốt đẹp, mọi thứ gắn với Cộng sản là xấu xa. Ngày 3/3/2014,  một nhóm các nhà văn đã từng tham gia Đảng Cộng sản nay muốn tách khỏi các tổ chức có ảnh hưởng của Đảng, lập nên Văn đoàn Độc Lập. Trên website của văn đoàn này ở địa chỉ vanviet.info, các tác phẩm văn chương của VNCH được đăng trang trọng trong một chuyên mục riêng tên là “Văn học miền Nam trước 75”, trong khi đó, không hề có một chuyên mục tương tự cho văn học Cách mạng hay văn học thời kỳ trước đó. Xu hướng ca ngợi VNCH một cách mù quáng còn được thể hiện trong một loạt các bài viết ca ngợi nền giáo dục của chế độ cũ [14]. Trên internet, những ảnh chụp, bản scan sách giáo khoa cũ của VNCH được lưu truyền, triết lý giáo dục, hệ thống phân lớp và bằng cấp thời đó cũng được lật lại và chia sẻ với những lời tấm tắc xuýt xoa. Cái được khen nhiều nhất của nền giáo dục ấy vẫn là “tinh thần dân chủ”, chẳng hạn như theo nhà phê bình văn học Thụy Khuê, “nhờ sự tự trị của đại học mà các giáo sư có quyền giảng dạy tự do, không bị áp lực chính trị của chính quyền, điều kiện giáo dục này cho phép miền Nam xây dựng được một tầng lớp trí thức”. Bỗng dưng, người ta đưa nền giáo dục này lên thành chuẩn mực, thành hình mẫu đáng học tập, và quả thật họ cũng có học tập theo. Khẩu hiệu “Nhân bản – dân tộc –khai phóng” được dựng lại với nhiều phiên bản, đội nhiều lốt khác nhau, không khó để nhận ra tư tưởng này ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động của Quỹ Phan Châu Trinh, Nhà xuất bản Tri Thức và nhiều hội đoàn tổ chức khác. Tuy nhiên, dường như những người “tâng” nền giáo dục này lên quá cao đang lờ đi một sự thật rõ ràng rằng chính trong cái thời mà họ cho là hoàng kim của giáo dục và tri thức ấy, có rất nhiều phong trào phản đối của sinh viên nổ ra trên toàn miền Nam, và cũng nhiều không kém là những hoạt động đàn áp sinh viên biểu tình. Thực tế, các trường đại học VNCH chưa bao giờ được tự trị, mà luôn bị chi phối bởi Bộ Giáo dục và Tổng Nha Công vụ về mặt hành chính. Một sự thật khác: theo chính sách quân sự đề ra từ phía Mỹ, chính quyền Sài Gòn đã sử dụng nhiều cách khác nhau để biến các trường đại học thành những trại lính dự bị chuẩn bị cho cuộc chiến[15]. Chất lượng của nền giáo dục ấy được phản ánh rõ qua các phong trào biểu tình của sinh viên. Nếu đó là một nền giáo dục tốt đẹp, tại sao lại có nhiều phong trào sinh viên đến vậy? Nếu nền giáo dục ấy thật sự đề cao con người, vậy sao lại đàn áp các phong trào một cách bạo lực và dã man?

Các nhóm dân chủ “bình dân” khác đều nhận tài chính trực tiếp hoặc các hoạt động ngoại vận khác từ các tổ chức cờ vàng hải ngoại thì miễn bàn, luôn công khai hoặc ý nhị xiển dương cờ vàng và ca ngợi các “giá trị tự do” thời VNCH như là cách để lấy lòng hải ngoại, thu hút truyền thông nước ngoài và thu hút tài chính cũng như để gây dựng “thương hiệu nhà hoạt động dân chủ” cho mình. Thành công nổi trội như Phạm Thị Đoan Trang, Hồng Thái Hoàng, Mai Dũng, Mẹ Nấm Gấu, …

Tóm lại, phong trào dân chủ hiện tại qua muôn vàn động thái luôn cố tỏ ra cao thượng, đại diện cho thứ lý tưởng tốt đẹp, tuy nhiên bỏ qua vẻ ngoại đánh lạc hướng ấy, tận sâu bên trong nó lại là những thế lực ngầm đang cố chi phối cộng đồng bằng lòng thù hận, biến những người đấu tranh trở thành tốt thí cho âm mưu và tham vọng quyền lực của mình. Năm 2011, cái gọi là Chiến dịch Cờ vàng được tuyên bố là đã thành công khi 14 tiểu bang, 7 quận hạt và nhiều thành phố ở Hoa Kỳ đã công nhận cờ ba sọc đỏ là lá cờ chính thức đại diện cho cộng đồng người Việt tỵ nạn. Chính thể VNCH chết đã lâu, nhưng bóng ma của nó thì còn theo lá cờ vàng len lỏi khắp cộng đồng người Việt cực đoan còn đem lòng thù hận và đáng sợ hơn là đã xâm nhập, chi phối đường hướng hoạt động của cái gọi là phong trào dân chủ Việt.
GĐTQT
Chú thích
[1] Clip về lễ kỷ niệm ngày quân lực VNCH năm 2015 tại San Josehttps://www.youtube.com/watch?v=r-hm9XHzkEg
[3] Kay Johnson, “Terror Made in the USA”, Tuần báo Time, ngày 22-10-2001.
[4] Theo Yonhap News, “Vietnam protests S. Korea’s rejection of its extradition request”, The Hankyoreh, ngày 29-7-2006.
[7] Tuyên bố bất tín nhiệm Thường Trực THDCĐN nhiệm kỳ 2014-2016.www.ethongluan.org. 15-12-2016.
[9] Càng mạnh hơn sau thử thách, www.thongluan-rdp.org, 26-1-2017.
[10] Chủ Tịch Ủy Ban Ngoại Giao Hạ Viện HK cùng 20 dân biểu bảo trợ Nghị Quyết H.Res 484, Viettan.org, ngày 3-4=2012. Bản xem ngày 5-10-2016.
[12] DB Loretta Sanchez giải thích về cuộc phỏng vấn trên Univision, Viettan.org, ngày 29-8-2010, bản xem ngày 25-11-2016.
[13] Chương trình truyền hình gây quĩ cho dân biểu Loretta Sanchez tại đài SBTN, Viettan.org, ngày 26-7-2015.
[14] Nhìn lại nền Giáo dục VNCH: Sự tiếc nuối vô bờ bến, Tuxtini.com, ngày 1/12/2013
[15] Ths. Hoàng Thị Hồng Nga, Một số phong trào đấu tranh của sinh viên miền Nam Việt Nam (1954-1975), Tạp chí Lịch sử quân sự, số 271 (tháng 7-2014), tr.22-27.

Giáo phận Vinh: Có thực sự đi đòi công lý cho giáo dân?

Từ giữa năm 2016 đến nay, những đoàn giáo dân biểu tình rầm rộ chăng khẩu ngữ cực đoan, hô hào chống đối, sẵn sàng hùa nhau tấn công lực lượng an ninh, luôn chực chờ cơ hội để làm chính biến... xuất hiện với tần suất lớn trên hệ thống truyền thông lề trái, đặc biệt là các kênh Công giáo cực đoan từ sau thảm họa Formosa ở dải đất miền Trung. Mặc dù không nằm trong vùng bị nhiễm độc, kinh tế biển đã hồi phục và phát triển sau sự cố, nhưng nhiều giáo xứ Vinh ở Nghệ An dưới sự chỉ đạo của Uỷ ban Công lý và hòa bình vẫn kéo nhau từng đoàn tuần hành, gây rối an ninh trật tự dưới danh nghĩa đi kiện cáo đòi bồi thường. Hai sự việc lớn nhất gây bức xúc trong dư luận vừa qua phải kể đến linh mục Đặng Hữu Nam kích động giáo dân giáo xứ Phú Yên, Quỳnh Lưu, Nghệ An đầu tháng 10/2016 và ngày 14/2/2017, linh mục Nguyễn Đình Thục đã kích động, tổ chức cho giáo dân Song Ngọc, Quỳnh Lưu, Nghệ An vào Hà Tĩnh để kiện công ty Formosa, đòi đền bù thiệt hại. Nếu theo dõi sát sao diễn biến của các cuộc biểu tình, ai cũng có thể nhận thấy rằng “đi kiện” chỉ là một cái cớ, một màn kịch cho phong trào “thi đua biểu tình” đã diễn ra tại nhiều giáo xứ từ cuối năm 2016. 


Do “đơn và các tài liệu của người dân khởi kiện không đưa ra được tài liệu, chứng cứ chứng minh về những thiệt hại thực tế theo khoản 5, điều 189 bộ luật Tố tụng dân sự và sự việc đã được giải quyết bằng quyết định đã có hiệu lực của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo điểm C, khoản 1, điều 192 của bộ luật nói trên”, ngày 8/10/2017, TAND Kỳ Anh đã bác vụ kiện và 506 đơn kiện của các giáo xứ này đã được trả lại.



Rõ ràng việc khiếu kiện này chỉ là chiêu bài để dễ dàng tập hợp đám đông giáo xứ cực đoan, tự gắn cho mình sứ mệnh cứu thế. Đám đông này được các linh mục như Đặng Hữu Nam, Nguyễn Đình Thục ngày ngày xúi giục lòng hận thù đồng thời nhận được hàng tỷ đồng hỗ trợ tài chính từ Việt Tân và các tổ chức phản động, nên bất chấp đúng sai đã dẫm đạp lên pháp luật dưới danh nghĩa “từ thiện”, “ủng hộ đòi công lý” …


Trước khi bắt đầu các cuộc khiếu kiện ồn ào đầu năm 2017, vào tháng 12 năm 2016, Nguyễn Đình Thục đã sang Đài Loan để gặp linh mục người Úc gốc Việt Nguyễn Văn Hùng, một thành viên quan trọng của Việt Tân, nhằm mục đích xin các dân biểu Đài Loan can thiệp vào sự việc ô nhiễm môi trường của Formosa. Sau đó, đầu năm 2017, đúng ngày Lễ Tình Yêu, cuộc bạo loạn đã diễn ra một cách quá khích và bạo lực.
                                                                                                                
Muốn biến tất cả giáo dân thành đàn rối thể hiện tinh thần “tử vì đạo”, Nguyễn Đình Thục đưa ra chiêu bài “đi bộ khiếu kiện” từ Nghệ An vào Vũng Áng, Hà Tĩnh. Mặc cho quãng đường dài gần 200km, mặc cho xe cộ không hề bị ngăn cản bởi Công an Nghệ An, Nguyễn Đình Thục vẫn thúc ép giáo dân của mình chịu khổ nhằm biểu dương lực lượng gây áp lực với chính quyền. Trên tuyến đường dài 200km này, Thục còn kêu gọi giáo dân ở các vùng khác theo đuôi tiếp ứng.

Mặc dù mang bộ mặt nạ danh nghĩa dân khiếu kiện, nhưng linh mục Nguyễn Đình Thục lại không cho dân cử đại diện vào Tòa nộp đơn, cũng không nộp đơn cho đại diện lãnh đạo Công an, Uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ An. Đáp lại các yêu cầu pháp lý của chính quyền là màn mưa gạch đá từ các giáo dân dưới sự chỉ huy của Nguyễn Đình Thục, khiến 3 xe cảnh sát hư hỏng, 16 cán bộ cảnh sát bị thương, trong đó còn có ông Giám đốc Công an tỉnh. Màn ném đá này cho thấy bản tính côn đồ bên trong Nguyễn Đình Thục và sự tuân phục vào linh mục bất chấp đúng sai của giáo dân trong cuộc biểu tình. Nếu không có xử lý kịp thời, có lẽ cuộc bạo loạn này đã bùng phát thành một cuộc khủng bố giống chuyện đã xảy ra ở Mùa xuân Ả Rập hay Cách mạng Cam gây ra phá hủy và đổ máu.  Hiện tại Tòa vẫn chưa nhận được đơn còn linh mục Thục đang du hí, ăn chơi, trả lời phỏng vấn http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/nghe-an-len-tieng-ve-vu-viec-phuc-tap-tai-giao-xu-song-ngoc-3542506.html

VU CÁO, BỊA ĐẶT NGÔNG CUỒNG

Trước cảnh tượng hỗn loạn của ngày 14/2, cộng đồng mạng đã lên án những việc làm của Uỷ ban Công Lý và Hòa Bình.  Không những đã không nhận trách nhiệm, linh mục Nguyễn Đình Thục còn lớn tiếng đổ tội cho Công An Nghệ An dàn dựng sự việc. 


Nếu theo dõi kỹ các video biểu tình, chúng ta sẽ bắt gặp những gương mặt biểu tình viên chuyên nghiệp như Trịnh Anh Tuấn, Bạch Hồng Quyền, Dũng Aduku, Thu Nguyệt, Hoàng Bình…v…v… Đây đều là những đối tượng có tiền sự liên quan đến biểu tình, không đám đông hỗn loạn nào mà không góp mặt. Điều này cho thấy, cuộc biểu tình của họ và sự tấn công của họ vào Công An đã được dàn dựng trước bởi chính các thế lực cầm trịch trong làng dân chủ.

Như một “đấng anh hùng” mang sứ mệnh lật đổ chính quyền Cộng Sản, Nguyễn Đình Thục không ngừng tuyên ngôn rằng sẵn sàng đổ máu để bảo vệ công lý với luận điệu rằng Chúa sẽ bảo vệ giáo dân tiêu diệt Đảng Cộng Sản. Lợi dụng truyền thông lề trái, Nguyễn Đình Thục ngang nhiên đơm đặt, dối trá các điều sau: Một là lên án chính quyền xem thường ông ta vì chính quyền không đàm phán. Hai là bề trên sẽ ủng hộ ông ta và giáo xứ vì máu dân đã đổ, thông điệp này nhằm kích động truyền thông quốc tế và thế giới quan tâm và xót thương giáo dân Song Ngọc rồi hướng sự công kích vào chính quyền. Tất cả những luận điệu này đều được kênh SBTN tường thuật hứa hẹn sẽ quay trở lại khi lực lượng đã sẵn sàng hơn.

Hùa theo Nguyễn Đình Thục, một số thành phần biểu tình chuyên nghiệp cũng chia sẻ và lan truyền. Đáng chú ý, facebooker Thu Nguyệt của NoU Sài Gòn, một thành phần tích cực tham gia truyền thông đồng hành cùng giáo dân Song Ngọc, đã bị facebooker Quan Phạm phát hiện cũng hùa vào ném đá Công An Nghệ An. Đuối lý, Facebooker Thu Nguyệt đã block Facebooker Quan Phạm để bịt đầu mối. Những hành vi câu kết phản động chống phá Nhà nước như đã kể trên liên tục bị cộng đồng mạng lên tiếng phải đối. 

Còn nhớ, linh mục này không phải lần đầu gây ra bạo loạn. Năm 2012, linh mục Nguyễn Đình Thục cũng là kẻ chống đối chính quyền cực đoan, từng là thủ phạm trong vụ gây rối, bắt giữ trái phép cán bộ cơ sở và dân chúng, gây ra vụ xô xát với người dân miền núi Con Cuông. Đến nay, vẫn “chứng nào tật nấy”, Nguyễn Đình Thục lại tiếp tục kích động dân miền biển Nghệ An. Không thể để những kẻ như Nguyễn Đình Thục gây hỗn loạn thêm nữa, các cơ quan có thẩm quyền cần vào cuộc để phán xử linh mục cực đoan này cũng như các thế lực đứng đằng sau ông ta trong các cuộc biểu tình bạo loạn trá hình khiếu kiện Formosa. Chỉ khi những kẻ như Nguyễn Đình Thục được xử lý làm gương, tình trạng hỗn loan sau ô nhiễm biển Vũng Áng mới thật sự được giải quyết. 

LIÊN MINH MA QUỶ ĐÃ CÂU KẾT VỚI VIỆT TÂN GIẢI NGÂN CHO CUỘC CHIẾN CÔNG LÝ?

Mỗi cuộc biểu tình to hay nhỏ nổ ra liên tiếp ở các tỉnh miền Trung đều thấy các  gương mặt có bề dày thành tích trong việc tổ chức các cuộc biểu tình ở Hà Nội đã ăn trực nằm chờ trong các giáo xứ tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh dưới danh nghĩa truyền thông, từ thiện, tư vấn pháp lý như Nguyễn Lân Thắng, Lã Việt Dũng, Phạm Thị Đoan Trang, Trịnh Anh Tuấn, Bạch Hồng Quyền, Nguyễn Tường Thụy…

Tất nhiên những “nhà đấu tranh dân chủ” này đều là tay trong của các tổ chức phản động, khủng bố lưu vong, nên dễ hiểu nguồn tiền từ các thế lực chống đối bên ngoài đổ hàng tỷ đồng qua số này để thực hiện “sứ mệnh lịch sử”, gây dựng lên mối liên kết – đồng minh giữa “phong trào dân chủ” với thành phần linh mục Công giáo cực đoan. Trước và trong mỗi cuộc biểu tình, họ đều phân công nhau kẻ thì trực tiếp vào miền Trung để “cố vấn” và tiếp sức cả tinh thần lẫn vật chất cho các linh mục, kẻ không đến hiện trường được thì viết bài, làm phóng sự, làm truyền trên mạng xã hội thu hút dân chúng chú ý, kẻ thì làm báo cáo “tội ác của cộng sản” gửi cho báo đài nước ngoài và các tổ chức nhân quyền, chính phủ Mỹ, phương Tây để báo động họ về “diễn biến cách mạng cá” ở Việt Nam đang diễn ra dưới sự đoàn kết, huy động tổng lực của cả Công giáo và phong trào dân chủ, là thời cơ cho các nhà “cách mạng đường phố” phương Tây không nên bỏ lỡ.

Sau các cuộc bạo loạn là các zân chủ gia kiêm từ thiện chuyên nghiệp như Mai Dũng, Mai Phương Thảo, Mai Thanh…lại đổ bộ vào miền Trung để tiếp tế tiền, hiện vật từ hải ngoại hỗ trợ cho những giáo dân bị thương tích hoặc thiệt hại tài sản trong các cuộc bạo loạn.

Sau sự cố Formosa, để tiếp nhận các nguồn tiền đổ về miền Trung, Giám mục Nguyễn Thái Hợp cho thành lập  Ban hỗ trợ các nạn nhân thảm họa ô nhiễm môi trường biển miền Trung ngày 14/9/2016 trực thuộc Giáo phận Vinh nhằm vào giáo xứ có linh mục vốn có danh tiếng trong linh vực  chống cộng cực đoan. Ngay lập tức, dư luận thấy cuộc vận động bề thế của Việt Tân thông qua đài SBTN và quỹ ca nhạc “Bên em đang có ta” công khai hợp tác với Giáo phận Vinh quyên góp tiền từ “khắp nơi trên toàn thế giới đã ủng hộ cuộc gây quỹ “Thương Về Miền Trung” được 600 ngàn USD với điều kiện giải ngân ½ dành hỗ trợ giáo dân là ngư dân, ½ còn lại, tương đương 7 tỷ VNĐ chỉ dùng vào hỗ trợ phương tiện và giáo dân đi kiện.


Dễ thấy từ đây các cuộc biểu tình, các vụ kiện Formosa đều có bóng dáng hậu thuẫn của giám mục Nguyễn Thái Hợp cũng như Ủy ban Công lý và hòa Bình do giám mục này phụ trách. Tất cả các cuộc biểu tình núp danh đi kiện cáo đều được các kênh truyền thông Công giáo ở Hà Nội, TP HỒ Chí Minh tiếp sức bóp méo, người dân bị kích động xuống đường được mô tả như những anh hùng, giáo xứ các vùng bị nhập nhằng với  dân các vùng biển ô nhiễm, hành vi giữ gìn trật tự của lực lượng An ninh bị gọi là đàn áp, hành vi người biểu tình tấn công An ninh được cho rằng đó là sự quật khởi.

Dư luận đã chỉ đích danh khung cảnh hỗn loạn trong nhiều ngày tháng qua tại Nghệ an, Hà Tĩnh đều chỉ là những tấn tuồng bạo động mà Uỷ ban Công lý và hòa bình kết hợp với Việt Tân tạo dựng nên.

GIÁO DÂN MIỀN TRUNG BỊ BIẾN THÀNH CÔNG CỤ CHO LIÊN MINH MA QUỶ KÍCH ĐỘNG BẠO LOẠN

Từ lâu các thế lực phản động, thù địch với Đảng, Nhà nước đã cho rằng, thành phần cực đoan trong Công giáo sẽ  là lực lượng chống cộng thiện chiến nhất, hiệu quả nhất vì có lực lượng quần chúng hùng hậu có đức tin, có kỷ luật, có giáo lý giáo luật và có quy mô bao phủ khắp cả nước.

Trước cuộc bạo loạn của giáo xứ Song Ngọc, linh mục NGuyễn Đình Thục đã hợp tác với linh mục NGuyễn Văn Hùng, Ủy viên Trung ương của Việt tân gây dư luận về cuộc đi đòi công lý ở Đài Loan. Linh mục Đặng Hữu Nam hành hương đến giáo xứ Thái Hà nhận cam kết từ các bề trên ở đây. Toàn bộ quá trình bao loạn, họ nhận được sự bảo kê từ giáo phận Vinh, sự hiệp thông của cả các giáo xứ do linh mục chống đối quản xứ, sự cổ vũ, thổi phồng của cả hệ thống truyền thông chống chính quyền Việt Nam cả trong và ngoài nước.

Đến nay bất chấp sự phẫn nộ của dư luận, sự lên án của báo đài trong nước, các linh mục Nguyễn Ngọc Nam Phong, Nguyễn Văn Toản ở Hà Nội hay NGuyễn Đình Thục, Đăng HỮu Nam ở NGhệ An cũng như các giám mục bề trên vẫn ngang nhiên vận động giáo dân hiệp thông, tử vì đạo; tuyên bố tiếp tục cuộc chiến pháp lý cho đến khi Nhà nước đáp ứng các yêu sách và cho đến khi Formosa đóng cửa; các đối tượng, hội nhóm chống đối đua nhau cho ra các kế hoạch vận động, kêu gọi biểu tình khắp cả nước dưới danh nghĩa  tưởng niệm cho Formosa hay ủng hộ giáo dân đòi công lý, thực chất là sẽ biểu tình, bạo loạn cho đến khi thể chế chính trị hiện nay sụp đổ như chúng muốn. Điều này đã dẫn đến một số người dân bày tỏ sự thái độ cực đoan thiếu kiềm chế. Thực tế này đòi hỏi mỗi người dân, mỗi giáo dân cần tỉnh táo, không mắc mưu gây chia rẽ, thù hằn giữa lương và giáo, gây bạo loạn bất ổn xã hội và kiên nhẫn ủng hộ các biện pháp đấu tranh, xử lý của chính quyền.


 GĐTQT

Tiền đề cho các phong trào dân chủ Việt (1): Dựa vào các thế lực cực đoan trong Công giáo

 Từ năm 2006 đến nay, phong trào dân chủ Việt Nam (thực chất phong trào chống Cộng)  đã ở trong một thời kì trăm hoa đua nở. Bề ngoài, các hội đoàn chống Cộng luôn phất cao cùng một lúc vài ngọn cờ đầy chính nghĩa – như dân chủ, nhân quyền, công lý, tự do ngôn luận…, thậm chí cả từ thiện và bảo vệ môi trường. Nhưng nếu cư dân mạng đọc lịch sử trước khi đọc các bản tuyên ngôn, họ sẽ biết rằng từng nhánh của phong trào dân chủ Việt đều khởi đầu từ những nguyên nhân hoàn toàn khác. Dù trong những thời điểm nhất định, phong trào có qui tụ được một vài cá nhân có thiện chí, thì chung qui lại, toàn bộ dòng chảy lịch sử mà phong trào để lại cho đến nay vẫn luôn bị những kẻ trục lợi chính trị lợi dụng những mâu thuẫn đã có sẵn giữa các bộ phận của dân tộc Việt Nam, nhằm kích động không khí hận thù để lái hướng.


1. Dựa vào các thế lực cực đoan trong Công giáo

Dựa vào thế lực cực đoan trong Công giáo để nuôi dưỡng, hình thành, phát triển « phong trào dân chủ » là đặc trưng rõ nét nhất. Vì sao thế lưc này lại luôn hận thù và tìm cách lật đổ chế độ chính trị hiện nay ?

Dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa, Công giáo từng được giữ một địa vị chủ chốt trong hệ thống của miền Nam Việt Nam vì hai lí do. Thứ nhất, hệ thống chính quyền của Việt Nam Cộng hòa vẫn kế thừa lớp nhân sự cũ của chính quyền thuộc địa Pháp, trong đó người Công giáo – hậu thuẫn quần chúng quan trọng nhất của Pháp ở Việt Nam – nắm nhiều ưu thế về cả trình độ đào tạo lẫn vị thế. Thứ hai, gia đình của Ngô Đình Diệm, tổng thống Việt Nam Cộng hòa đầu tiên, là một gia đình Công giáo.

Kết quả hình ảnh cho Ngô Đình Thục
Figure 1Tổng giám mục Ngô Đình Thục, anh trai ông Ngô Đình Diệm

Hai lí do này khiến trong chế độ Việt Nam Cộng hòa, Công giáo được thiên vị một cách công khai. Ngô Đình Diệm dành cho Giáo hội Công giáo quyền chi phối các trường (kể cả trường không phải của Giáo hội) về mặt tinh thần, cốt đảm bảo thực hiện  được nội dung giáo dục « duy linh », mà thực chất là nội dung thần học theo lối triết học kinh viện thời Trung cổ. Phần lớn các học bổng đi học nước ngoài đều rơi vào tay các linh mục hoặc con em gia đình Công giáo[1]. Hệ thống trường tư thục của Công giáo phát triển rất nhanh. Avro Manhattan thống kê rằng: Từ năm 1953 đến năm 1963, khắp miền Nam đã xây dựng 145 trường cấp II và cấp III, riêng ở Sài Gòn có 30 trường với tổng số 62.324 học sinh. Cũng trong cùng thời gian này, Giáo hội Công giáo ở miền Nam Việt Nam, từ chỗ chỉ có 3 trường cấp II và III trong năm 1953, đến năm 1963 đã lên tới 1.060 trường, tức là tốc độ tăng nhanh gấp 8 lần hệ thống trường công[2]. Có nơi Linh mục dùng uy thế của mình để phụ huynh không cho con học trường công mà phải vào học trường của Giáo hội, nên trường tư thục của Giáo hội làm tê liệt cả trường công, khiến trường công trở nên trống rỗng do không tuyển được học sinh[3].

Trong thời kì 1955-1963, các trường học miền Nam được nghỉ lễ Noel đến 15 ngày. Trong khi đó, năm 1956, kì lễ Phật đản bị bãi bỏ.

Trong văn thư số 124 ngày 1/8/1963 của Uỷ ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo gửi ông Frederick E. Nolting (đại sứ Mỹ tại Sài Gòn) có đoạn: “Mỗi năm lễ Giáng sinh đều được cử hành với sự tham gia trực tiếp và hữu hiệu của Chính phủ, nào thông điệp của Tổng thống, công sở treo cờ trang hoàng, nào Công giáo độc chiếm Đài quốc gia để phát thanh trong mấy ngày liền trên hệ thống A chính thức, nào bắt toàn thể nhân viên của Phủ Tổng thống, các ông bộ trưởng, các công chức cao cấp, kể cả những người theo đạo Phật phải dự lễ nửa đêm v...v… Quá quắt hơn hết là việc năm rồi, một hang đá (phỏng theo câu chuyện Chúa Jesus chào đời) được đặt ngay tại Tòa Đô chính, làm như toàn dân Châu thành Sài Gòn là người Thiên Chúa giáo.”

Trên núi Thiên Bút, tỉnh Quảng Ngãi vốn có nền cũ của chùa Phật giáo. Khi chính quyền Ngô Đình Diệm lên kế hoạch xây nhà thờ Công giáo trên đó, họ gặp phải phản ứng dữ dội từ phía Phật tử địa phương.

Ngày 27/7/1961, quân đội Việt Nam Cộng hòa bắn hàng loạt đạn cối vào chùa Cao Dân, xã Tân Lộc, Cà Mau khi 200 người Khmer đang làm lễ nhập hạ, khiến 20 người chết và bị thương.


Figure 2  Ngô Đình Diệm trong buổi lễ đặt Việt Nam dưới sự bảo trở của Đức Mẹ Maria, tháng 2/1959

Không đáng ngạc nhiên, khi tình trạng phân biệt đối xử này gây bức xúc cho những thành phần xã hội không Công giáo. Biến cố Phật giáo tháng 5 năm 1963 trở thành một trong những nguyên nhân trực tiếp khiến chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ. Sau 1975, Đảng Cộng sản đánh đuổi chế độ Mỹ ngụy, Công giáo tự nhên mất hết « đặc quyền đặc lợi », bình đẳng với các tôn giáo khác . Ngày 19/6/1988, 117 tu sĩ và giáo dân Công giáo Việt Nam được Vatican phong thánh. Chính quyền Việt Nam phản đối việc phong thánh này, vì họ cho rằng danh sách được phong bao gồm cả những người mà họ cho là “tay sai của đế quốc, lót đường cho thực dân Pháp xâm lược Việt Nam” từ năm 1884.

Trong lịch sử, Công giáo luôn bị chính quyền phong kiến và các phong trào yêu nước tẩy chay. Toàn bộ các thánh tử đạo của Công giáo Việt Nam đều bị xử tử bởi các chính quyền phong kiến hoặc phong trào yêu nước , như phong trào Văn Thân và Cần Vương. Mặt khác, bất kể những lập luận của Giáo hội về sự vi phạm của chính quyền nhà Nguyễn đối với "quyền tự do tôn giáo", ta cũng không thể phủ nhận vai trò của người Công giáo trong tiến trình xâm lược của thực dân Pháp ở Việt Nam.  Như sử gia Pháp Georges Coulet viết trong cuốn Cultes et Religions de l’Indochine Annamite (Saigon, p. 99), “ Thiên Chúa giáo đã mở cửa cho quân đội Pháp và đã là nguyên nhân trực tiếp của cuộc xâm lược”. Hiện nay, vai trò của các giáo sĩ thừa sai Pháp trong cuộc xâm lược vẫn được lưu trữ đầy đủ trong các tài liệu được cung cấp bởi văn khố của Hội Thừa sai Paris. Cuốn “Thừa Sai Công Giáo Pháp và các chính sách của dế quốc tại Việt Nam 1857-1914”[4] của Patrick J.N. Tuck là một nguồn tổng hợp tương đối đầy đủ các tài liệu này.

Vì vậy, có thể nói rằng không ít thì nhiều, mâu thuẫn giữa Giáo hội và chính quyền hiện hành chỉ là sự tiếp nối của mâu thuẫn giữa Công giáo Việt Nam và triều đại phong kiến, phong trào yêu nước và chế độ chính trị hiện nay. Vấn đề nằm ở chỗ khi lợi dụng mâu thuẫn này để khuấy động không khí hận thù, các thế lực trục lợi chính trị luôn che lấp dòng lịch sử đi, và viện dẫn những cái cớ mang tính thời sự. Dòng chảy xuyên suốt, ngầm ẩn bị lãng quên, và người ta tưởng rằng mình đang gây chiến với nhau chỉ vì những gợn sóng lăn tăn nhất thời trên mặt nước. Chẳng hạn, trong phần lịch sử tóm tắt của dòng Chúa Cứu thế Việt Nam trên trang cuuthe.org, việc “đấu tranh cho Công lý và Hòa bình” được xem như một hoạt động của dòng Chúa Cứu thế. Theo đó, “phát động từ Thái Hà (Hà Nội), dòng Chúa Cứu thế tại Việt Nam chọn đứng về phía người nghèo, người bị áp bức, nạn nhân của bất công, nạn nhân của cường quyền…”. Như vậy, bất chấp thực tế rằng mình là một cộng đồng có hận thù lâu năm với các lực lượng chính thống, dòng Chúa Cứu thế Việt Nam tỏ ra như thể mình là một bên thứ ba trung lập, đang tiếp cận những bộ phận dân chúng mới hình thành mâu thuẫn với chế độ, để giúp đỡ họ một cách hào phóng và vô tư.

Các hoạt động chính trị của dòng Chúa Cứu thế tại Việt Nam, như huấn luyện truyền thông và cung cấp nơi ở, địa điểm họp báo, phương tiện kĩ thuật... cho thành viên các tổ chức đối lập, hoặc trực tiếp tham gia vào các cuộc biểu tình liên quan đến chính sách đối ngoại và chính sách đất đai của chính quyền, vốn vẫn nhận được một sự hậu thuẫn lớn từ chủ trương của hàng giáo phẩm cấp cao. Trong thực tế, Hội đồng Giám mục Việt Nam không cứng nhắc tuân thủ nguyên tắc tách rời sinh hoạt tôn giáo và sinh hoạt chính trị thế tục.



Dễ hiểu, trong hầu hết các hoạt động chính trị của Dòng Chúa cứu thế đều có bóng dáng của các thế lực “chống cộng” trong và ngoài nước hoặc tham gia hoặc hậu thuẫn. Đến thời gian gần đây, xuất phát từ nhận định cho rằng Formosa là “tử huyệt” của chế độ cộng sản nên các thế lực này đổ dồn mọi nhân vật lực, tài chính, hy vọng thế lực trong Công giáo sẽ làm được cái việc mà hơn 40 năm qua họ không làm nổi

 GĐTQT

Chú thích:
[1] Lê Cung, “Chính sách của chính quyền Ngô Đình Diệm đối với Phật giáo Miền Nam trên lãnh vực kinh tế – xã hội và văn hoá – giáo dục”
dẫn Nguyễn Văn Trung, tạp chí Bách Khoa số 175, ngày 15-4-1964, trang 37-43.
http://www.giaodiemonline.com/thuvien/doithoai/lecung_diem-vhgd.htm
[2] Avro Manhattan, “Vietnam Why did we go?”, Ca. USA, 1984, trang 85.
[3] “Vietnam: The unheard Voices”. Cornell University Press, Ithaca, USA, 1969, trang 111.
[4] Patrick J.N. Tuck, “French Catholic Missionaries and the Politics of Imperialism in Vietnam 1857-1914”, Liverpool University Press, 1987