Trước thông tin tốt lành trong quan hệ giữa Việt Nam và
Vatican liên quan chuyến thăm Vatincan của Chủ tịch nước, thì những người xấu,
chuyên săm soi, “bới lông tìm vết” lại xem đó là cớ để lu loa rằng, “một nguyện
vọng chính đáng của giáo dân Việt Nam đã bị chặn lại suốt 10 năm”; rằng, “rất
có thể tiếp tục bị cộng sản ngăn cản khi tiến tới quan hệ ngoại giao toàn diện”(!)
Các ngài thường vỗ ngực là “thạo tin” và đưa tin “khách
quan, trung thực”, nhưng đã cố tình lờ đi những thông tin tích cực. Đây, UCA
(hãng tin công giáo chuyên về châu Á) khẳng định: “Hiến pháp của Việt Nam cho
phép tự do tôn giáo và các phương tiện truyền thông của Chính phủ đã bác bỏ chỉ
trích từ các nhóm Ủy ban tự do tôn giáo quốc tế của Mỹ, từng xếp Việt Nam vào
danh sách “các quốc gia cần quan tâm đặc biệt”. Trang này cho rằng,
trong bối cảnh đó, việc Việt Nam cho phép Vatican đặt đại diện thường trú “là một
bước tiến tích cực”, rằng “để tiến tới mối quan hệ toàn diện, có lẽ sẽ là một
chặng đường dài”. Hãng tin Reuters cũng chung quan điểm đó.
Ai cũng biết, trong lịch sử quan hệ ngoại giao thông thường,
các quốc gia đều có những bước đi thích hợp, phù hợp lộ trình và lợi ích của mỗi
nước. Những năm qua, với chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương
hóa các mối quan hệ quốc tế, và với phương châm “gác lại quá khứ, xóa bỏ hận
thù, hướng tới tương lai”, Việt Nam đã và đang cải thiện nhiều mối quan hệ,
ngay cả với nước từng là cựu thù theo lộ trình từ thấp lên cao, từ hẹp đến rộng
nhằm đáp ứng lợi ích của cả hai phía. Theo hướng đó, trong quan hệ với một số
cường quốc, có nước đi từ quan hệ hợp tác nhiều mặt đến hợp tác toàn diện; có
nước là “đối tác hợp tác toàn diện” đến “đối tác chiến lược” hoặc “chiến lược
toàn diện”… Điều đó phụ thuộc tình hình cụ thể, nhất là thái độ của những người
lãnh đạo đứng đầu quốc gia đó. Từ thực tế ấy, các ngài thấy rõ lý do vì sao từ
chỗ cho phép Vatican “đặt đại diện thường trú” đến việc “thiết lập quan hệ ngoại
giao toàn diện”, là một quá trình, cần có thời gian và trải qua thực tiễn cụ thể.
Do đó, cần nhấn mạnh rằng, bước đầu tiên trong quá trình này, những người có
lương tri đều thấy hợp lý và hoan nghênh!
Thiết nghĩ, nên dẫn ra đây một quá trình dài với những cố gắng
cụ thể của Việt Nam trong việc cải thiện quan hệ với Vatican: đầu năm 2007, Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm Vatican, hội kiến Giáo hoàng Biển Đức XVI và thủ tướng
Vatican, Hồng y Tarcisio Bertone. Tháng 2/2009, phái đoàn của Tòa thánh do Thứ
trưởng ngoại giao – Đức ông Pietro Parolin dẫn đầu – thăm Việt Nam và làm việc
tại Hà Nội, cả hai bên quyết định thành lập “Nhóm công tác hỗn hợp Việt Nam –
Vatican” để thảo luận vấn đề về quan hệ ngoại giao. Ngày 11/12/2009, nhân chuyến
thăm Italia, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã có cuộc hội kiến với Giáo hoàng
Biển Đức XVI và Hồng y Tarcisio Bertone. Ngày 22/11/2013, Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng với chuyến công du tại Ý, đã có cuộc hội kiến với Giáo hoàng Biển Đức
XVI, v.v… Các ngài nghĩ gì khi giới quan sát quốc tế cho rằng “đây là điều ít xảy
ra, vì Giáo hoàng thông thường chỉ tiếp các nguyên thủ quốc gia, các thủ tướng,
hoặc các nhà lãnh đạo chính trị tiếng tăm thế giới, ít khi tiếp một lãnh đạo
chính đảng”. Vậy các ngài giải thích thế nào về thái độ Đảng, Nhà nước Việt Nam
thường xuyên quan tâm chính sách tự do tín ngưỡng, luôn tạo điều kiện cho các
tôn giáo, trong đó có Công giáo hoạt động với mục đích “tốt đạo, đẹp đời”? Nếu
không nhất quán chính sách ấy, chắc chắn Tổng Bí thư và Thủ tướng Việt Nam lại
hội kiến với Vatican để bàn việc thiết lập quan hệ ngoại giao! Đây là kết quả sự
bền bỉ thể hiện thiện chí của phía Việt Nam.
Cần nói thêm rằng, ngay khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
(nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) ra đời, chỉ sau một ngày, ngày
3/9/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh đã họp Chính phủ để bàn thảo
và thông qua 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó có nhiệm vụ: “Thực hành tự do tín
ngưỡng, lương giáo đoàn kết”. Giám mục Lê Hữu Từ được Bác Hồ mời làm Cố vấn
Chính phủ; và thể hiện sự tôn trọng cương vị đó, Bác Hồ thường xuyên gửi thư
trao đổi ý kiến với Giám mục Lê Hữu Từ về tình hình kháng chiến cứu quốc. Xin
trích ra đây toàn văn lá thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Giám mục Lê Hữu Từ
ngày 23/1/1947:
“Thưa cụ,
Đã lâu không được gặp cụ, tôi nhớ lắm.
Từ ngày thực dân Pháp bội ước khai hấn, toàn thể đồng bào ta
phải đồng tâm nhất trí, kháng chiến cứu quốc. Lần này cũng như những lần trước
6-3 và 14-9, tôi chắc cụ đã lấy địa vị công và tư, là Cố vấn của Chính phủ và
là bạn thân của tôi, mà giải thích và kêu gọi đồng bào hǎng hái tham gia kháng
chiến cứu quốc.
Vì công việc còn bận, tôi chưa có thể gặp cụ để trực tiếp cảm
ơn cụ, tôi xin phái người thân tín là ông Huỳnh thay mặt tôi đến hỏi thǎm và
chúc cụ mạnh khoẻ.
Nhờ cụ cầu Đức Chúa ban phúc cho Tổ quốc và xin cụ nhận lời
chào thân ái của tôi.
Ngày 23 tháng 1 nǎm 1947
HỒ CHÍ MINH”
Người viết bài này còn nhớ lời tâm sự của Bác Hồ với đại ý rằng,
Đức Phật cũng như chúa Giêsu đều có chung mong ước là con người được sống trong
sung sướng và hạnh phúc. Hồ Chí Minh và toàn dân Việt Nam, từ người theo đạo
cũng như không theo đạo nào, đã và đang đồng lòng đánh đuổi thực dân Pháp và đến
quốc Mỹ xâm lược cũng vì mục tiêu cao cả ấy. Bởi vậy, xin được nhắc những ai
đó, nếu cứ khăng khăng đi ngược lại lợi ích to lớn ấy, chuyên suy diễn, xuyên tạc
bản chất sự việc, nhất là dùng tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước và khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, chắc chắn sẽ thất bại ê chề!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét